Năm 2009, hai kỹ sư từng làm việc cho Yahoo! - Brian Acton và
Jan Koum - sáng lập Công ty WhatsApp,
cung cấp dịch vụ nhắn tin cho điện thoại có kết nối Internet, không phụ thuộc
vào nhà mạng nào. Tên gọi WhatsApp là cách nói trại từ câu hỏi "What's Up?" (có chuyện gì
không?), nhấn mạnh mục tiêu của WhatsApp là đáp ứng nhu cầu liên lạc bằng tin
nhắn.
Sau khi cài đặt ứng dụng WhatsApp trên điện thoại (giá 1 USD
trên iPhone, miễn phí trên Android) và đăng ký dùng dịch vụ, người dùng nhận được
mã kích hoạt (activation code), được dùng như mã định danh. Từ đó, người dùng
biết ngay trong số những người thân quen (những người có tên trong danh bạ của
điện thoại), ai cũng là người dùng WhatsApp để gửi tin nhắn cho họ qua Internet
(thay vì gửi tin nhắn SMS và chịu cước tin nhắn). Người dùng WhatsApp được miễn
phí trong năm đầu và chỉ phải trả phí thuê bao 1 USD/năm cho những năm sau
(không kể cước dữ liệu trả cho nhà mạng). Hai người sáng lập WhatsApp đều không
thích phương án cung cấp dịch vụ miễn phí và thu lợi từ quảng cáo.
Tuy không cung cấp dịch vụ miễn phí, WhatsApp thu hút trên
200 triệu người dùng, tạo ra 20
tỉ tin nhắn mỗi ngày (chủ yếu tại Mỹ, Châu Âu, Trung Đông và Nam Phi) nhờ
trào lưu Internet di động. Tin nhắn WhatsApp nay có thể kèm âm thanh, hình tĩnh
và hình động (video). Người dùng thích thú với WhatsApp vì cách dùng đơn giản,
lại dễ dàng biết được những ai đang trực tuyến (online) trong số bạn bè của
mình. Từ khi cho phép tạo ra nhóm tin chat
group (cung cấp chức năng trò chuyện trong nhóm), WhatsApp thực sự đáp ứng
nhu cầu quan trọng nhất của mạng xã hội. Học sinh, sinh viên thường tạo ra nhóm
tin WhatsApp cho cả lớp. Tuổi thiếu niên tuy rất quen thuộc với Facebook nhưng
thường xem đó là kênh "nghiêm túc", không dành cho những hoạt động riêng
tư với rất nhiều "bí mật", phải ở bên ngoài tầm giám sát của người lớn
(quá đông người lớn ở Facebook!). WhatsApp hiện là một trong vài ứng dụng được
tải xuống nhiều nhất ở các cửa hàng ứng dụng.
Thành công của WhatsApp kích thích những dịch vụ tương tự nở
rộ: Bistri, Forfone, Fring, Movicha, Nimbuzz, ooVoo, PingMe, Scydo, Sidecar, Snapchat,
TalkboxApp, Tango, Viber, VoipBuster, Kik, Hike (chủ yếu ở Ấn Độ), KakaoTalk
(chủ yếu ở Hàn Quốc, Đông Nam Á), Line (chủ yếu ở Nhật Bản), WeChat (chủ yếu ở
Trung Quốc),... Mỗi dịch vụ tin nhắn qua Internet đều cố tìm cho mình nét đặc
thù. Viber cho phép thực hiện cuộc gọi miễn phí qua Internet, Line có thêm cuộc
gọi thấy hình (video call) giống như Skype hoặc Google Hangouts, KakaoTalk cho
phép thực hiện cuộc gọi nhóm (group call),... Cách thu lợi của các dịch vụ cũng
đa dạng, thường miễn phí một phần, thu lợi từ quảng cáo, từ dịch vụ cộng thêm:
cung cấp hình biểu cảm hoặc trò chơi (Line, KakaoTalk). Đến cuối năm 2013,
doanh số của dịch vụ nhắn tin qua Internet khoảng gấp đôi doanh số tin nhắn SMS
thông thường và chắc chắn sẽ gia tăng trong năm 2014 khi điện thoại thông minh
ngày càng phổ biến (theo công ty nghiên cứu thị trường Informa
Telecoms and Media).
Những người dùng máy tính bảng vẫn có thể tham gia mạng tin
nhắn. Người dùng máy tính bảng Nexus
7 thường dùng ứng dụng textPlus
để có số điện thoại ảo cần thiết cho việc đăng ký dịch vụ WhatsApp và nhận mã
kích hoạt.
Lưu lượng dữ liệu tăng lên ở mạng tin nhắn tác động vào mức
độ phát triển của mạng xã hội thông thường. Facebook, Google và Twitter đều cố
gắng cải tiến dịch vụ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhắn tin. Người dùng Facebook
Messenger nay có thể nhắn tin cho người dùng khác không phải là "bạn
Facebook" nếu biết số điện thoại. Google Hangouts (bộ
phận đảm nhiệm chức năng nhắn tin của mạng xã hội Google+) nay cho phép dùng
hình động GIF trong tin nhắn và "kiêm nhiệm" cả việc gửi/nhận tin nhắn
SMS/MMS thông thường. Về chức năng, mạng xã hội Google+ nằm lưng chừng giữa
Facebook và Twitter, vừa có những mối liên hệ bạn bè gần gũi như ở Facebook, vừa
thể hiện xu hướng tập hợp theo sở thích, theo sự hâm mộ những người nổi tiếng
như ở Twitter.
Những người sáng lập Twitter năm 2006 vốn có ý định thực hiện
dịch vụ nhắn tin trên Internet giống như WhatsApp, nhưng vào lúc ấy, thị trường
Internet di dộng chưa phát triển. Twitter dần dần trở thành "mạng xã hội
thị hiếu", thể hiện sở thích của thành viên hơn là liên hệ bạn bè. Dù
Twitter đang chú ý đến nhu cầu gửi/nhận tin
nhắn trực tiếp (direct message) giữa hai thành viên, cho phép trò chuyện
riêng tư dễ dàng hơn, giới truyền thông nhận định rằng Twitter có thể triển
khai dịch vụ tin nhắn riêng, có nét văn hóa riêng, khác với nét văn hóa đặc thù
của Twitter đã trở nên sâu đậm: tính ngắn gọn và tính công cộng.
Dù chức năng gửi/nhận tin nhắn của các mạng xã hội lớn thuận
tiện hơn, các dịch vụ tin nhắn sẽ vẫn phát triển thành mạng xã hội theo cách
riêng. Đối với người tham gia mạng xã hội tin nhắn, khái niệm "xã hội"
nhỏ hơn, chỉ gồm phần cốt lõi: những người có tên trong danh bạ điện thoại.
Trong phạm vi những mối liên hệ thực (thường là bạn bè gặp mặt hằng ngày), người
dùng không vướng bận với "tiểu sử" hay "thương hiệu cá
nhân" như ở Facebook.
Căn cứ vào đặc điểm của não người, nhà nhân chủng học Robin
Dunbar cho rằng số lượng mối liên hệ xã hội bền vững của một người có giới hạn,
một người khó duy trì liên hệ bền vững với trên 150 người khác. Khẳng định ấy tạo
nên khái niệm số Dunbar (150) nổi tiếng.
Số lượng mối liên hệ xã hội ở Facebook có thể vượt xa số Dunbar, nhưng mạng xã
hội tin nhắn dường như đang chứng tỏ giới hạn ấy là có thực.
NGỌC
GIAO